TRANG CHỦ

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT - THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC
- Địa chỉ liên lạc : 47 đường Quang Trung, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc ( tỉnh An Giang ) ............... Điện thoại văn phòng : ( 02963 ) 866 321 Tạp chí Văn nghệ Châu Đốc - Email : vnchaudoc@yahoo.com.vn

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2014

* VÌ SAO NHỮNG ĐÌNH LÀNG QUANH THƯỢNG NGUỒN SÔNG CỬU LONG LẠI THỜ NGUYỄN HỮU CẢNH? Nghiên cứu của Đỗ Văn Ngôn




Sau khi sưu khảo về những đình làng quanh vùng thượng nguồn sông Cửu Long, chúng ta mới phát hiện một điều kỳ lạ! Những ngôi đình ấy chỉ thờ duy nhất có một người, là danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh. Đấy là đình Thới Sơn (Tịnh Biên), đình Châu Phú (Châu Đốc), đình Đa Phước (An Phú), đình Châu Phong (Tân Châu), đình Mỹ Đức, đình Bình Thủy (Châu Phú), đình cù lao Ông Chưởng (Chợ Mới)... Những đình làng kể trên đều cúng giỗ Nguyễn Hữu Cảnh cùng một ngày (mùng 09 tháng 5 âm lịch hằng năm).

“Nguyễn Hữu Cảnh sinh năm 1650 tại Huế, tên thật là Nguyễn Hữu Kính, con thứ ba của Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật, một dòng họ làm quan nhiều đời, tiên tổ là Ức Trai Nguyễn Trãi. Từ nhỏ, ông rèn luyện văn võ, theo cha trấn đóng tại Quảng Bình, lập được nhiều công lớn và giữ đến chức Chưởng cơ.
Năm 1698, vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, chia đất Đông Phố ra làm dinh, làm huyện; lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Đặt Trấn Biên dinh (tức Biên Hòa) và Phiên Trấn dinh (tức Gia Định).
Năm 1700, Nguyễn Hữu Cảnh đến Vĩnh Long, sau đó đánh đuổi giặc tại Nam Vang. Làm xong công việc, ông xuôi thuyền về nước. Khi về tới cù lao Cây Sao (Chợ Mới), ông dừng quân để khao binh trong ngày Tết Đoan Ngọ (mùng 05 tháng 5 âm lịch năm Canh Thìn – 1700). Tương truyền trong đêm ấy, Nguyễn Hữu Cảnh chiêm bao thấy có một hung thần hình vóc vạm vỡ, vẻ mặt hung hăng quái gở, đang thẳng tay hành hạ cư dân Việt Nam sống hai bên bờ sông Cửu Long. Lập tức, ông đứng ra bênh vực và đánh đuổi tên hung thần ấy. Trận chiến giữa ông và tên hung thần xảy ra long trời lở đất. Đến khi giết được tên hung thần, ông Nguyễn Hữu Cảnh cũng quá mệt, mồ hôi vã ra đầm đìa và lúc trời cũng vừa hừng sáng. Ông thuật lại giấc mơ kỳ lạ với binh gia tướng lãnh, sau đó thổ huyết. Bệnh ngày càng trầm trọng, ông kéo quân đến Rạch Gầm (Mỹ Tho) và mất tại đây nhằm ngày mùng 09 tháng 5 năm Canh Thìn (1700), hưởng thọ 51 tuổi”.
“Sau khi mất, ông Nguyễn Hữu Cảnh được nhiều sắc phong thần của các triều vua: Gia Long (1810), Minh Mạng (1831), Tự Đức (1852) với các tước vị: Đô Thống Chế Dinh Thần Cơ, Thượng Đẳng Thần, Khai Quốc Công Thần, Lễ Thành Hầu, Chưởng Binh Lễ, Thượng Đẳng Lễ...”.
Từ lúc ông Nguyễn Hữu Cảnh về đóng quân ở cù lao Cây Sao (Chợ Mới), thì từ đó, cù lao Cây Sao đổi tên thành cù lao Ông Chưởng. Chữ Chưởng đây là chức vụ của ông Nguyễn Hữu Cảnh, là Chưởng cơ hay Chưởng binh Lễ Thành Hầu. Về sau, có câu ca dao rằng:
“Chiều chiều quạ nói với diều,
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm”.


Trước năm 1700, cách nay trên 308 năm, người Việt đã có định cư bên hai bờ sông Tiền và sông Hậu. Lúc bấy giờ, không thể nói lưu dân sống ở đây là nhiều được. Vì phía Nam Vang gọi là Lục Chân Lạp, còn phía châu thổ sông Cửu Long gọi là Thủy Chân Lạp, hay đất Tầm Phong Long. Một vùng đất trũng, nước đọng quanh năm, rừng thiêng nước độc. Con người sống chung với thú dữ. Việc canh tác trồng trọt chỉ khoét lỏm bỏm những giồng đất cao cặp theo hai bên bờ sông. Ngoài ra, còn gặp không ít chim chuột, thú rừng đến phá hoại mùa màng. Duy chỉ có cá tôm là vô số. Dân chúng không thể chết đói, có thể lấy tôm cá thay cơm. Vùng đất mới với điều kiện khắc nghiệt, cư dân thưa thớt, cuộc sống luôn bị đe dọa:
“Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống bưng sợ đĩa, lên rừng sợ ma”.
Nỗi lo âu khắc khoải luôn canh cánh bên lòng:
“Đến đâu xứ sở lạ lùng,
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh”.
Ngoài cảnh vắng vẻ âm u, người dân luôn đối mặt với bệnh tật, giá rét, đói lạnh... Hơn nữa, cư dân còn nơm nớp lo sợ bọn giặc Chân Lạp, chúng chờ đến mùa thu hoạch thì tràn xuống cướp lúa, lùa trâu, hãm hiếp phụ nữ, giết chóc nhân dân.
Cho đến khi ông Nguyễn Hữu Cảnh tảo trừ được giặc Chân Lạp và đuổi chúng về tận Nam Vang thì dân chúng sinh sống quanh vùng mới được yên ổn.
Nguyễn Hữu Cảnh là vị thần hộ mệnh của lưu dân:
Lúc bấy giờ (1700), vùng đất Hà Tiên có Mạc Cửu chiếm cứ, cặp theo bờ biển Hà Tiên đến Cà Mau. Phía Đông chúa Nguyễn quản lý đến Biên Hòa, Gia Định. Vậy, vùng đất châu thổ sông Tiền và sông Hậu chưa nội thuộc chủ quyền của người Việt. Tuy nhiên, lúc đó cặp hai bên bờ sông Cửu Long đã có người Việt ở rải rác từ lúc nào. Trên đường đuổi giặc Chân Lạp trở về, ông Nguyễn Hữu Cảnh cho dừng quân lại thăm hỏi, vỗ về ủy lạo lưu dân sống hai bên bờ sông. Dân Việt nô nức vui mừng. Chúng ta có thể hiểu được tâm trạng người Việt lưu lạc, sống nơi hoang vu hẻo lánh, nơi cùng trời cuối đất, thiếu thốn trăm thứ, bị giết chóc, cướp bóc, không ai bênh vực. Bỗng dưng, gặp được người cùng giống nòi. Lại là tướng lãnh, binh gia rầm rộ, đuổi được bọn ác, bảo vệ nhân dân cơ nhỡ, sức yếu thế cô. Vậy mà vị tướng Nguyễn Hữu Cảnh nhân từ kia, còn dùng lời lẽ ngọt dịu, an ủi, ủy lạo lưu dân, thì bảo làm sao dân không mến không thương cho được?! Tình quân dân cá nước như nắng hạn gặp mưa rào. Vị quan lớn của triều đình Nguyễn Hữu Cảnh bỗng xuất hiện giữa nơi quạnh quẽ, hoang vu, nơi khỉ ho cò gáy như thế này. Hình ảnh của ông vừa hùng dũng, uy nghi như vị thần nhân từ, vừa đầy đủ uy lực phủ trùm lên một góc trời, để che chở cho con dân nước Việt. Rồi đột nhiên, tin dữ như tiếng sét xé lòng, xé ruột, tin ông qua đời làm cho lưu dân chết lặng, sững sờ. Không ai bảo ai, phải lập ngay đền thờ để thờ ông. Lập tức, những ngôi đình dựng lên khắp nơi, như những chiếc nấm mọc rộ sau cơn mưa rào. Đình Châu Phú, Châu Phong, Đa Phước, Mỹ Đức, Bình Mỹ, Chợ Mới...
Từ đó, người dân đi mở cõi có được một vị thần hộ mệnh, luôn theo sát mọi người để hộ trì, che chở, phù hộ cho lưu dân có cuộc sống bình yên, no đủ. Các quỷ thần ở vùng ma thiêng nước độc, khi thấy nơi nào có đình thờ Chưởng Cơ Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh thì các ác thần phải rút sâu vào núi rừng. Thế là, nơi đó sẽ được bình yên, mưa gió thuận hòa, mùa màng tươi tốt.
Đến năm 1757, sau ngày Nguyễn Hữu Cảnh mất 57 năm, vua Chân Lạp Nặc Nhuận bị con rể là Nặc Hinh giết chết để cướp ngôi. Con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang nhờ Mạc Thiên Tứ cầu cứu với chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn giúp Nặc Tôn lên ngôi. Để tạ ơn, Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (vùng châu thổ sông Tiền và sông Hậu ngày nay).
Kể từ đó, đất Tầm Phong Long được xác nhập vào địa đồ của ta về phương Nam, để đánh dấu kết thúc cuộc Nam tiến của dân tộc suốt 775 năm (982-1757). Khi ta có chủ quyền, các tổ chức hành chánh được thành lập, có quan lại trông coi, bắt đầu xúc tiến cuộc khẩn hoang lập ấp. Và cũng từ đó, nhân dân đã nhiều lần trùng tu đình thần Nguyễn Hữu Cảnh trong làng mạc của mình. Đến nay, hơn 300 năm, những ngôi đình làng theo thời gian biến đổi, dần dần trở nên đẹp đẽ, sáng sủa trong màu ngói đỏ uy nghiêm, khói hương nghi ngút.
Binh sĩ lập đình để thờ chủ tướng Nguyễn Hữu Cảnh:
Từ nhiều đời sau, người dân vẫn còn tôn kính vị khai quốc công thần có lòng thương yêu dân như con, đối với thuộc hạ như tay chân. Lúc đó, ông chỉ ghé lại thăm viếng, hàn huyên với người Việt cặp hai bờ sông Cửu Long trong một đôi ngày mà tình nghĩa nhân dân còn nặng mang như vậy. Huống chi, binh gia đối với ông tình như chủ tướng, từng sống chết trong lúc hiểm nguy, xông pha trận mạc, vào sanh ra tử. Xuất binh từ miền Trung, ngàn dặm núi rừng xông xáo vào Nam, tiến qua Chân Lạp, bình định Nam Vang. Trong toán binh gia ấy cũng có người xuất thân cùng quê hương với ông. Bỗng chốc, ông rời xa vĩnh viễn, bỏ lại đệ huynh làm cho mưa sầu, đất thảm. Các tướng lãnh cùng binh sĩ đều ngậm ngùi rơi lệ, rũ trắng cờ tang. Đoàn quân tiến về mang theo hài cốt của ông trong niềm tiếc thương vô hạn... Tưởng là bình định xong quân giặc, lúc về khải hoàn hát khúc quân ca. Nhưng không ngờ, ông đột ngột chết đi, ví như cây đại thụ bỗng ngã quỵ xuống dòng sông, binh sĩ thình lình mất đi vị chủ tướng tài ba, làm cho binh gia bàng hoàng xót đau thảm thiết...
Theo đoàn quân rút về kinh đô, đa số binh sĩ cùng hương hồn ông về lại quê hương. Nhưng, cũng có số người ở lại hai bên bờ sông Tiền và sông Hậu sinh cư lập nghiệp! Bởi vì, sau ngày ông ghé lại thăm dân Việt hai bên bờ sông, nhìn thấy đất đai tài nguyên trù phú, phù sa của dòng sông Cửu Long về sau sẽ có tiềm năng bồi đắp, nâng cao vùng châu thổ nầy. Và nếu dân Việt định cư nơi này càng đông, thì bờ cõi sẽ tiếp tục được mở rộng về phương Nam. Vì thế, ông ra lệnh cho thuộc cấp, binh sĩ và binh phu của ông ở lại sống cùng nhân dân.
Chính đội quân nòng cốt nầy, đầu tiên lãnh đạo bảo vệ nhân dân, khai hoang lập ấp. Và cũng chính binh gia của ông, là động cơ thôi thúc dân Việt khắp nơi lập lập đình để thờ chủ tướng Nguyễn Hữu Cảnh.
Tuy không theo được đoàn quân về lại quê hương miền Trung xa xôi, nhưng binh tướng ở lại trên mảnh đất phù sa trên cơm dưới cá nầy, đoàn kết quây quần lập ấp, lập làng, sanh con đẻ cháu. Những người ấy, chính là những bậc Tiền hiền theo lệnh Nguyễn Hữu Cảnh ở lại khai hoang mở cõi. Trong lòng quan binh luôn tôn kính vị tướng lãnh mến yêu của mình. Vì vậy lúc nào họ cũng muốn có ông bên cạnh để nâng đỡ che chở, nên đã lập đình tôn thờ. Thật sự, ông Nguyễn Hữu Cảnh đã hiển thần, và liên tục nhiều đời vua nhà Nguyễn phong cho ông nhiều sắc thần, với danh vị khác nhau. Ông Nguyễn Hữu Cảnh đã hộ trì cho con dân của mình quanh vùng châu thổ sông Cửu Long liên tục được mùa, đời sống sung túc no đủ. Thế rồi, 57 năm sau ngày ông mất, vùng đất Tầm Phong Long đã trở nên màu mỡ mà ông đã tiên liệu, thì bấy giờ đã chính thức nằm trong bản đồ của đất nước Việt Nam.
Thật vậy, nhân dân rất nhớ ơn ông, chính những ngôi đình thuở xa xưa được dựng lên bằng tre nứa, thì ngày nay nhiều lần trùng tu trở nên đồ sộ, sừng sững nằm ngay đầu làng, bên cạnh có gốc đa già hay hàng sao cổ thụ.
Xin được nghiêng mình tri âm vị khai quốc công thần mở mang bờ cõi Chưởng Cơ Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, vị thần mà bao đời vẫn tồn tại trong lòng nhân dân đất phương Nam.

Đ.V.N
* Tài liệu tham khảo:
- Mùa hội Vía – Trịnh Bửu Hoài.
- Lược sử Tân Châu – Huỳnh Quang Ngự.
- Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim.
- Nửa tháng trong miền Thất Sơn – Nguyễn Văn Hầu.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét