Tôi gọi cây
lúa “thần” vì thân lúa dài ba, bốn thước. Và con cá “linh” bởi có tánh linh, hễ
nước giựt nó theo nước trở về nguồn, nơi nó sinh ra.
Trước năm
1975, tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Hà Tiên chỉ toàn cây lúa thần và cá linh không
biết làm gì cho hết. Cá linh nấu dầu để đốt đèn, cá linh ủ phân để bón cây. Về
sau, cá linh làm nước mắm, làm mắm để dành ăn. Nhiều quá, đem bán cũng ít ai
mua, phải bán rẻ, nên có câu: “Rẻ như cá linh”.
Cây lúa thần
và con cá linh có liên quan với nhau. Trời sanh cây lúa lạ lắm! Hằng năm, nước
đầu nguồn sông Cửu Long đổ về ngập đồng, sâu lút đầu. Vậy mà lúa vẫn mọc theo,
nước tới đâu lúa theo tới đó. Thử tưởng tượng, cánh đồng mênh mông như biển,
hơn trăm ngàn cây số vuông, cá linh non bằng que tăm từ biển Hồ tràn về, sống
lẫn trong lúa và lớn nhanh như thổi. Cá vào đồng từ tháng bảy đến tháng mười
thì lớn bằng ngón tay cái. Đến chu kỳ nước bắt đầu giựt, trong đồng nước ngã
màu thúi đỏ. Cá linh chỉ sống được nước bạc, nên chúng nhanh chóng tìm cách
thoát thân, theo đường kinh rạch, lần ra sông Cái, trở về biển Hồ. Lúc đó,
người ra gọi: “Mùa cá ra”.
Vui lắm! Thuở
ấy, lũ trẻ chúng tôi la cà theo đàn cá dại nổi đầy kinh. Chúng tôi đi dọc theo
bờ, lấy tay kéo râu, bắt từng con cá chốt và làm chĩa nhiều mũi đâm cá lìm kìm,
cá rô biển, cá hột mít…, nhưng cá linh là nhiều hơn hết. Người ta bắt cá bằng
nhiều cách: Vó gạt, vó càn, đáy, lưới giựt… Từ trong ruộng, cá linh tìm mọi
cách thoát ra kinh. Chỉ cần cái vó gạt chận ngang, trong chốc lát cá đầy ắp ghe
chài. Những lúc cá tràn kinh xanh nước mà bên ngoài không còn chiếc ghe chài
nào, buộc phải mở miệng thả cá ra sông, không thì bể lưới…
Cá nhiều như
vỡ đê, vỡ đập. Nhiều đến độ không còn cân cá bằng ký mà phải đong bằng táo mới
kịp. Thời kỳ ấy khan hiếm dầu lửa, nhà nào cũng chứa sẵn một lu dầu cá, để dành
quanh năm đốt đèn. Cách đốt đèn đơn giản: Lấy cái tô bể đựng dầu, gát tim vải
lên miệng tô. Vậy là, cây đèn dầu cá cháy tới sáng, chỉ lưng chút dầu thôi. Tụi
nhỏ chúng tôi chờ đến mùa Tết, đổ dầu cá vào vỏ ốc bưu, thắp sáng, treo đầy gốc
cây. Sáng ra, bên kia bờ sông đồn vang: “Năm nay xóm tôi giàu, ăn Tết chạy đèn
điện”.
Thật ra, xứ
nào cũng có cá, có mắm. Nhưng có lẽ mắm Châu Đốc là ngon nhất vùng. Mà muốn kho
nồi mắm ngon, phải kiếm cho được con mắm cá linh. Đúng vậy! Cá linh là hương vị
quê nhà! Đi xa, nhớ món cá linh kho lạt, chấm với bông súng đồng và điên điển
đầu mùa vừa mới ra bông. Vị cá măn mẳn thơm lừng, vừa bùi, vừa nồng nàn ngon tê
đầu lưỡi.
Bây giờ, cá
linh khan hiếm, giá mắc ngang bằng thịt heo. Nhắc lại chuyện cá linh hồi xưa,
tuổi trẻ lắng nghe thích thú, nhưng chúng bảo rằng giống như chuyện đùa, chuyện
huyền thoại.
Cứ như là mới
hôm qua, hôm kia, bữa cơm gạo Nàng Son (gạo lúa thần) bay thơm nồng khắp nhà.
Chén cơm quê lấm tấm hạt điểm màu son, vị ngọt lừ ăn với mắm sống cá linh không
gì sánh bằng! Gợi ta nhớ chuyện cây lúa thần lớn lên theo đất trời không phân,
không thuốc. Giáp năm mới thu hoạch một lần, mỗi công chỉ được mười giạ.
Cánh đồng rộng
bạt ngàn không có bờ mẫu như bây giờ. Nông dân liệng đại hột giống khô xuống
ruộng, bừa lấp lại là xong. Năm nào trời hạn, nửa tháng sau mùa sạ mà chưa thấy
rớt hột mưa, nông dân ra vào nhìn trời thấp thỏm, không yên. Lo sợ chuột, bọ,
dế ăn hết hột giống, lúa thưa thớt thì vụ mùa cuối năm thất bát.
Xứ sở cây lúa
thần làm ruộng như chơi, chẳng cực nhọc gì, sạ xong, ai nấy thu xếp về nhà,
cánh đồng trở nên hoang vắng. Mấy người sinh sống bằng nghề gài rập chuột, ban
đêm còn ở lại. Ai thích nghe chuyện ma trơi, ma đuốc, giữa đêm khuya giông gió
thì kiếm mấy người gài chuột kể cho nghe chuyện ma say sưa đến rợn người. Tự
dưng nửa đêm đau bụng, thức dậy mắt nhắm, mắt mở, trịt quần ị đại xuống bờ đìa.
Bỗng dưng, đạn lửa từ đít xẹt lên trời có dây, có dọc. Hoảng kinh hồn vía, lúc
đó chỉ kịp xách quần mà chạy. Cánh đồng về đêm là thế giới của người âm. Những
đóm lửa nhỏ như ngọn đèn dầu leo lét, di chuyển tới lui, lúc nhanh, lúc chậm là
chuyện thường. Cứ tưởng ai cầm đèn đi lại gần mình, nhưng khi bước ra chận đầu,
ngọn đèn chuyển qua hướng khác. Hoặc chuyển không kịp, đóm lửa nhỏ bỗng dưng
phụt tắt…
Đó là những
lúc mùa khô, còn đến khi nước chạy vào đồng, cây lúa thần như bừng lên sức
sống, lá bè ra và xanh mướt. Chừng đó, đàn cá linh xuất hiện. Không chỉ có cá
linh mà các loại cá đồng như: Cá lóc, cá trê, cá rô… cũng nhiều vô số. Từ đấy,
thôi thúc dân nghèo xoay ra sống nghề câu lưới. Lúc bấy giờ, xuồng câu dập
dềnh, rải rác khắp đồng. Mỗi ngày ít nhiều cũng kiếm được năm, mười lít gạo.
Ngoài ra, còn xuống lung nhổ thêm bông súng, chống quanh giề trấp đâm chuột,
bắt rắn. Mùa nước mà chuột con nào cũng ú mềm. Rắn hổ thì dài thườn thượt, đem
về nấu cháo đậu xanh ngon hơn thịt gà. Muốn ăn trứng chim, chịu khó chống xuồng
hơi xa một chút, vào đồng lâm bẻ gương sen, hốt trứng cúm núm… dân sống trên
đồng lúa “thần” nghèo nàn nhưng không đói. Mọi thứ đều có sẵn.
Nhưng đâu phải
trời yên biển lặng hoài. Những hôm giông bão, đồng lúa cũng chao nghiêng. Thảm
họa ập xuống mấy chiếc xuồng câu, chơi vơi không chịu nổi con sóng dữ, lật úp,
chết người. Kinh nghiệm trên đồng nước, đêm xuống, xuồng phải tìm chòm gáo mà
cột. Nếu không, gió mạnh bị xô giạt đến phương nào cũng chưa biết. Ẩn vào chòm
gáo rồi, đôi lúc vẫn không yên, gặp cơn giông lớn đứt dây, chìm xuống, chỉ còn
cách leo lên đọt gáo trốn mưa chờ sáng. Sáng ra, thấy bóng người mới la lên kêu
cứu…
Dân nghèo sống
bằng nghề câu lưới cam chịu lênh đênh mấy tháng trên đồng nước, đong gạo kiếm
ăn từng bữa, thật nguy hiểm! Thời gian từ năm này qua năm khác, với họ vất vả
mãi rồi cũng quen.
Trời đổi tiết,
gió bấc thổi sòng ngọn, mang về hơi lạnh. Cây lúa thần hơi giựt mình, vội vã ra
bông. Lúc nằm dài ngã đọt về hướng Nam , xuôi chiều như mái tóc người
thiếu nữ. Nước bắt đầu giựt. Cá bỏ đồng tìm ra sông Cái. Thân cây lúa thần nằm
chồng lên nhau dầy hai, ba tấc. Lúc nầy, những người thợ gặt xuống đồng, lưỡi
hái cắt ngọt từng nạm bông, oằn hột. Tất cả được cộ lết, làm bằng tre, kéo bởi
hai con bò gom về sân lúa. Không phải như bây giờ có máy gặt đập liên hợp mà
bốn, năm con bò ken lại với nhau, đi xoay tròn trên sân lúa giẫm đạp sáng đêm.
Vừa tờ mờ sáng người ta sốc bả, bới rơm, rồi đàn bò đạp đi, đạp lại nhiều lần.
Đến khi không còn sót hạt lép mới thôi. Trên đồng, số rạ dầy, nông dân tận dụng
sạ đậu.
Sau mùa lúa,
cánh đồng bắt đầu xanh mùa rẫy. Xong rẫy, đến mùa đốt đồng, cày đất, rồi sạ
xuống hạt giống mới. Vậy là, chu kỳ của cây lúa thần đã qua hết một năm.
Cây lúa thần
thu hoạch năng suất không nhiều, nhưng đặc sản lạ thường của vùng đất ngập
nước, một thời cung cấp lương thực dư dả cho Nam bộ. Cùng lúc, vụ mùa của cây
lúa thần mang lại niềm vui rộn rã cho nông dân, chính là mùa thu hoạch đúng vào
dịp Tết Nguyên đán. Về sau, cánh đồng bao đê chuyển qua làm Thần Nông hai vụ,
rồi lên ba vụ. Năng suất so với cây lúa thần tăng gấp bảy, tám lần. Cho nên
ngày nay dường như ít ai còn nhớ tới một giống lúa quý đã thích nghi với vùng
nước nổi, tồn tại một thời gian dài, suốt thời kỳ khai hoang mở đất. Mất cây
lúa thần, từ đấy không còn môi trường sống của con cá linh nữa!...
ĐỖ VĂN NGÔN
( Theo - Đỗ Phu )
( Theo - Đỗ Phu )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét