Thời tôi đi học không sung sướng bằng bây giờ nhưng cũng không cực nhọc như thời cha tôi.
Trên đường có xe ngựa đưa khách, nhưng học trò nghèo đâu có tiền đi. Để mau tới trường, ông thường vịn đít xe ngựa chạy bộ theo. Mỗi ngày phải vượt qua hai mươi cây số bằng đôi chân trần trong nắng mưa để kiếm chút chữ nghĩa. Cái học ngày xưa gian khổ như thế đó.
Thuở ấu thơ, tôi rất mê sách bút. Dù chưa biết chữ, nhưng gặp viết giấy là tôi vẽ nghuệch ngoạc chẳng ra con gì. Cha mẹ tôi là nông dân nhưng vì thương con nên sẵn sàng mua cho tôi từ cuốn tập này đến cuốn tập khác, hết cây viết này đến cây viết khác. Có lẽ nhờ vậy mà sau này tôi có hoa tay, viết vẽ đều khá đẹp.
Khi
tôi lên sáu, ông Nội dạy kèm cô Út tại nhà nên tôi được học ké. Nhờ cô Út, tôi
biết được những chữ đầu tiên. Sau đó tôi tới tuổi đến trường, vì tôi quá nhút
nhát nên cô Út phải đưa vào lớp và ngồi học cùng tôi. Nhờ tôi, cô Út mới học
hết bậc sơ cấp (lớp ba ngày nay).
Ngôi
trường đầu tiên của tôi nằm trong sân miếu nên có tên là trường sơ cấp Miếu
Điền. Trường chỉ có vài phòng học bằng tre lá, cách nhà tôi khoảng năm trăm mét
đường chim bay nhưng phải băng qua nghĩa địa và một rừng mây um tùm. Nếu đi
đường vòng theo xóm nhà thì xa hơn một cây số. Trước sân trường cũng là sân
miếu có một cây đa to, cả chục người ôm không giáp. Trong bụng cây là một khoảng
trống, cha mẹ chúng tôi dặn rằng không được chun vào đó đùa giỡn, sẽ bị thần
linh quở phạt. Sau này tôi đi xa, mỗi lần về quê đứng ở đầu làng nhìn tàn đa
cao nổi bật trên vòm trời xanh biếc, lòng bồi hồi nhớ lại ngôi trường xưa nơi
ấy.
Bây
giờ, ngôi trường đã được xây dựng tường vôi ngói đỏ khang trang với hai dãy lớp
trên mười phòng học, nhưng cây đa thì không còn nữa. Ngôi miếu cổ rêu phong trở
thành ở đậu trong sân trường. Con đường tắt xuyên nghĩa địa mà thuở xưa chúng
tôi phải từ bốn năm đứa trở lên mới dám đi qua, có khi còn phải ù té chạy vì
một tiếng động bất ngờ, bây giờ đã được đắp cao mở rộng, có nhà ở rải rác. Xóm
nhà đông hơn thì nghĩa địa cũng đông hơn. Nhà ngói, nhà tường mọc lên thì mả
đá, mả vôi cũng san sát.
Thuở
ấy, tuổi thơ của chúng tôi không có đồ chơi hoặc phương tiện giải trí đa dạng
và phong phú như hiện nay. Ngày nghỉ học cả bọn thường rủ nhau đi bắt dế, xúc
cá thia thia hay móc đất sét nắn trâu bò, xe kéo… Hoặc bày những trò chơi đồng
quê như bứt cỏ đá gà, bắn ống thụt, thả diều… Còn những trò chơi có tính ăn
thua tôi chẳng bao giờ dám tham gia như đánh đáo, thảy lổ lạc… Vì nếu thua thì
xót tiền của cha mẹ cho, còn lỡ ăn thì tội nghiệp bạn mình quá, đành phải trả
lại nó thôi. Điều đó có lẽ ảnh hưởng đến đời tôi sau này, luôn đứng ngoài những
cuộc chơi có tính cách cờ bạc.
Người
thầy lớp năm (lớp một bây giờ) đã rèn luyện cho lũ nhóc chúng tôi một thế ngồi
cầm viết ngay ngắn, cán viết phải hướng về vai phải, tập để thẳng trước mặt,
ngực không tựa vào bàn. Một cách ngồi viết thoải mái, không gây ảnh hưởng tới
cơ thể, mà chữ lại đều và đẹp. Thời đó bậc sơ cấp chúng tôi không được sử dụng
bút nguyên tử, tất cả phải dùng viết chấm mực để dễ gò nét chữ trên trang giấy.
Năm
lớp ba tôi đã bộc lộ năng khiếu, cuốn tập làm văn của tôi được thầy giữ lại để
làm bài mẫu cho năm sau. Hết lớp ba tôi phải xuống Mỹ Đức học tiếp lớp nhì (lớp
bốn ngày nay). Trường tiểu học Mỹ Đức A có khoảng sân rộng và hai dãy lớp khang
trang, nằm bên cạnh ngôi đình làng cổ kính. Trước sân cũng có cây đa nhưng
không to bằng cây đa miếu Điền. Phía sau đình có cây sao cao vút, chúng tôi
thường ra nhặt trái sao ném lên trời rồi nhìn nó bay xoay xoay trong gió. Vì
nhà cách trường hơn bốn cây số nên cha tôi mua cho tôi một chiếc xe đạp nhỏ.
Con đường Mỹ Đức rợp bóng nhãn xanh, che mát cho tôi ngày hai quận đi về. Đến
mùa nhãn chín, chúng tôi đi trong hương thơm ngào ngạt.
Tựu
trường được ít lâu làng tôi bị lụt lớn, đó là mùa nước nổi năm 1961. Các trục
lộ giao thông đều bị ngập nước, chúng tôi phải bơi xuồng đi học. Có hôm gặp trận
mưa to ướt cả tập vở. Nhưng bọn chúng tôi thì khoái chí vì trên đường đi học về
thi nhau phóng xuống đồng nước lặn hụp, đùa giỡn, hái trái cà na. Lúc đó cây cà
na mọc như rừng ở hai bên bờ con rạch cặp lộ, tha hồ mà hái ăn không ai cấm
cản.
Cuối
năm lớp nhất (lớp năm bây giờ) chúng tôi chuẩn bị ra trường tỉnh ứng thí. Lúc
đó thi vào đệ thất (lớp sáu) rất khó khăn. Cả tỉnh chỉ có một trường công lập
với trên ba ngàn thí sinh dự thi nhưng chỉ tuyển chọn hơn ba trăm, tỉ lệ một
chọi mười. Đứa nào cũng có cha mẹ hoặc chú bác đưa đi thi vì đám học trò nhà
quê chúng tôi có biết đường sá gì đâu. Thấy nhà lầu cao là choáng ngợp, thấy
đèn điện là lóa mắt ngơ ngơ ngác ngác như nai xa rừng. Gặp đề văn bình luận câu "Một con ngựa đau cả tàu chê cỏ" chúng tôi thi nhau tả chiếc tàu chạy trên
sông, kết quả rớt lộp độp !
Cha
tôi cho tôi vào học trường Trung học tư thục Hòa Bình bên cạnh nhà thờ Châu Đốc
mới vừa xây dựng, nhưng chỉ được vài tháng không lo nổi tiền học phí nên tôi
phải ôm tập trở xuống trường Nam
tiểu học học lớp tiếp liên. Thời ấy có lớp tiếp liên dành cho những học sinh
thi rớt đệ thất luyện lại một năm nữa để tái ứng thí. Nhưng trường Nam
chỉ có hai lớp loại nầy nên ai muốn vào học cũng phải qua kỳ thi tuyển.
Vào
học trường Nam
tôi được tiếp xúc với ánh sáng đô thị, dù Châu Đốc không phải là một thành phố
lớn nhưng cũng có một khoảng cách khá xa với xóm quê của tôi. Tôi biết nhịn quà
để mua những quyển sách đầu tiên. Các câu chuyện cổ tích, thần thoại, phiêu lưu
hấp dẫn tuổi thơ tôi và những hoài bão, ước mơ bắt đầu nhen nhóm trong lòng cậu
học trò đã biết nhìn ra ở phía chân trời không chỉ có mây và gió. Phía sau hàng
cây xanh xa xăm kia là bao điều bí ẩn mà tuổi trẻ hiếu kỳ muốn khám phá. Tôi
nhớ mãi bà bán sách sol có dáng cao gầy bên cạnh rạp chiếu bóng Lạc Thanh. Bà
trải tấm cao su trên vỉa hè rồi bày ra đủ thứ loại sách với giá rẻ thu hút
người qua đường. Tụi nhỏ chúng tôi chỉ đủ tiền mua những cuốn sách mỏng mỏng,
và những quyển sách đó phải đổi bằng bữa ăn sáng của mình, dù chỉ là bữa ăn
sáng đơn sơ bằng khoai mì chuối hoặc ổ bánh mì chan. Bà rất dễ tính, cho bọn
tôi tha hồ lựa chọn và cứ ngồi đọc vài trang, cuốn nào thích thì mua, không ưng
thì để xuống rồi đi.
Tôi
lớn lên từ mùi rơm rạ, từ những thỏi đất cày cháy nắng, vui đùa với dòng sông
đục ngầu phù sa, với tiếng dế gáy đi vào giấc ngủ… Nhịp sống đô thành đã gieo
vào hồn quê chơn chất của tôi một luồng sinh khí mới, tạo cho tôi một tính cách
năng động, hoạt bát hơn.
Tôi
học thêm chương trình luyện thi hè với quyết tâm vào trung học và cuối năm đó
tôi đã đậu hạng cao. Bước vào trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa là vinh dự cho
gia đình và bản thân tôi, bởi cả xóm quê chỉ có vài người thi đậu. Chiếc áo sơ
mi trắng ngắn tay, quần tây xanh, giày ba ta trắng, tôi là cậu học trò mới vào
trung học vừa chững chạc, vừa ngây ngô. Đường lên chợ tỉnh xe cộ đông đúc, cha
tôi không cho tôi đi xe đạp vì sợ tai nạn. Mỗi ngày tôi phải đi xe đò đến
trường. Những chiếc xe Folic kéo thùng máy nổ inh tai, khói bay mù mịt, bây giờ
đã lùi vào quá khứ, nhưng thời đó là phương tiện thông dụng, sau nầy mới có xe
Lambetta, Daihatsu hiện đại hơn.
Vốn
mê văn chương, tôi tập sáng tác và mạo muội gởi đăng báo ở Sài Gòn. Lần đầu
tiên thấy bài mình trên báo, lòng tôi vui mừng kỳ lạ. Năm đệ lục (lớp bảy ngày
nay) tôi được các anh lớp trên mời vào Thi văn đoàn sinh hoạt thơ văn. Anh chị
thấy bài mình xuất hiện trên báo nên lần mò tìm tới lớp làm quen. Sau đó tôi và
mấy người bạn cùng lớp thành lập nhóm thơ văn riêng, nơi sinh hoạt hội họp là
Bồ đề đạo tràng ! Rồi rủ nhau hùn tiền làm báo, lúc đầu chỉ đủ vốn in ronéo. Có
một số hiệu buôn giúp đỡ chúng tôi bằng cách nhận quảng cáo. Ngày xưa người ta
rất quí học sinh và trọng nghề báo nên đi tới đâu chúng tôi cũng được ủng hộ. Báo
in xong, chúng tôi ôm vào các trường học bán, thỉnh thoảng gặp mấy cô bạn
nghịch ngợm chọc "quê" làm mình muốn độn thổ. Vậy mà dần dần chúng tôi có đủ
tiền làm báo in typo (lúc đó chưa có offset), thường xuất bản vào mỗi độ xuân
hè.
Phong
trào sáng tác thơ văn trong học sinh lúc đó rất rần rộ dù tất cả đều là tự
phát. Tôi còn nhớ chỉ trong trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa, với sỉ số học sinh
không đông như bây giờ, có đến khoảng hai mươi bút nhóm, thi văn đoàn. Mỗi nhóm
trung bình mười cây bút thôi thì đã có hai trăm nhà văn nhà thơ tí hon. Tiếc
rằng số người theo đuổi sự nghiệp này đến ngày nay chỉ còn trên đầu ngón tay !
Thấy
tôi hay bỏ nhà đi làm báo, lúc đầu cha tôi rất lo và tỏ vẻ không hài lòng vì sợ
tôi chểnh mảng sự học. Nhưng năm nào tôi cũng mang về nhà một phần thưởng cao
nghệu. Lúc đó phần thưởng cho một học sinh hạng nhất rất xứng đáng, tôi ôm trên
tay mà chồng sách muốn cao hơn đầu mình. Cha tôi vui và không còn lo lắng.
Có
thể nói việc viết văn, làm báo vào lúc rảnh rỗi của chúng tôi là một trò chơi
giải trí tao nhã, lành mạnh hơn nhiều so với một số bạn đi đánh bi-da, đá banh
bàn hoặc mài đủng quần trong quán cà-phê nhạc, một loại hình mới xuất hiện rất
thu hút bạn trẻ thời đó.
Năm
tôi học đệ tứ (bây giờ là lớp chín) trường phát động Giải văn chương Thủ Khoa
Nghĩa và tôi được giải nhất về thơ. Tôi mang về cho cha tôi thêm một phần
thưởng trong lớp học. Cha tôi vui lắm và lần đầu tiên ông thấy một chút giá trị
của văn chương, thấy con đường mà tôi theo đuổi là không lầm lạc.
Chiến tranh bùng nổ ác liệt. Tổng động viên ! Mười tám
tuổi trở lên phải nhập ngũ, kể cả học sinh. Có khoảng hai phần ba bạn bè trong
lớp tôi nhận được lệnh gọi trình diện. Mọi người hoang mang, nhốn nháo. Học
sinh bất mãn, buông thả rồi tuyệt vọng. Một số ít tuổi còn nhỏ tiếp tục lên
trung học đệ nhị cấp (đệ tam đến đệ nhất). Số còn lại nếu không đi lính thì bỏ
trốn. Người vô bưng theo kháng chiến, kẻ lìa xứ tìm nơi náu thân. Tôi thay tên
đổi tuổi mua học bạ giả xuống Long Xuyên tiếp tục sự học.
Đến
Long Xuyên tôi vào học lớp đệ tam trường Bồ Đề, một trường Trung học tư thục
của Phật giáo. Tôi mướn nhà trọ ngang sân vận động, chỉ cách trường vài chục
mét. Tôi nhanh chóng hòa nhập với anh em văn nghệ ở đây. Tuy mới gặp nhưng đã
biết tên nhau trên báo nên coi như đã quen từ lúc nào. Tôi cùng một nhóm học
sinh trường Trung học Thoại Ngọc Hầu kết hợp làm báo, công khai có lén lút có.
Trường
Bồ Đề lúc ấy quản lý lỏng lẻo, chất lượng học không cao nên năm sau tôi chuyển
sang trường Trung học Phụng Sự, cũng là trường tư thục nhưng của Công giáo. Bởi
thích ở gần trường nên tôi thuê nhà trọ ở khu Đèn bốn ngọn. Xa quê, sống kiếp ở
trọ, tôi rất nhớ nhà nên chiều thứ bảy nào cũng khăn gói về quê. Một ngày chủ
nhật quí giá. Tôi đi rong trên cánh đồng làng còn ướt sương mà hít thở hương
ngàn gió nội. Tôi đắm mình trong dòng kinh biên biếc in bóng mây trôi. Tôi tận
hưởng giây phút ấm cúng của mái gia đình. Tôi tranh thủ gặp lại bạn bè xưa…
Ngày chủ nhật qua nhanh quá ! Tôi không muốn rời quê nửa bước, nhưng vì hoàn
cảnh nên phải ra đi.
Học, viết và đọc sách. Lúc này tôi vùi đầu đọc sách vì
đất Long Xuyên ít có chỗ nào đi chơi giải trí thú vị như núi Sam, xóm Chăm Châu
Giang, vườn nhãn Mỹ Đức của Châu Đốc. Qua cồn một đôi lần đã nhàm chán. Vào núi
Sập thì xa quá, hơn hai mươi cây số. Không khí trong thành phố lại nhàn nhàn,
ru ngủ. Đầu tuần có sách mới về là cuối tuần tôi phải nhịn ăn sáng. Không có
cha mẹ bên cạnh, tôi phải tự tin, tự rèn luyện để nên người… TRỊNH BỬU HOÀI
( Châu Đốc )
( Theo - TTT )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét